Những điều bạn cần biết về bệnh bạch hầu

(lamchame.vn) - Trong thời gian gần đây, ngành y tế đã liên tiếp ghi nhận những ca mắc bệnh bạch hầu, đã có trường hợp tử vong vì căn bệnh này. Vậy bệnh bạch hầu là gì? Bệnh bạch hầu có nguy hiểm không và dấu hiệu căn bệnh này như thế nào?

Bệnh bạch hầu là gì?

Bệnh bạch hầu là một loại bệnh nhiễm trùng nguy hiểm do vi khuẩn corynebacterium diphtheriae gây ra, có khả năng lây lan nhanh chóng và bùng phát thành dịch. Đây là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản và mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hay bộ phận sinh dục.

Vi khuẩn từ các mảng trắng có thể tiết ra nội độc tố, dễ gây suy hô hấp và tuần hoàn, liệt khẩu làm thay đổi giọng nói, sặc và khó nuốt khi ăn uống, lú lẫn; nặng thì hôn mê, sau đó tử vong. Một số trường hợp biến chứng viêm cơ tim hay viêm dây thần kinh ngoại biên. Ở những người không được tiêm phòng, hoặc không được điều trị kịp thời, 10% trường hợp người bệnh sẽ tử vong mặc dù đã dùng kháng sinh và sử dụng thuốc chống huyết thanh.

Bệnh bạch hầu được ông Hippocrates (người thầy thuốc vĩ đại nhất lịch sử thời Hy Lạp cổ đại) miêu tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Một số tài liệu cũng gợi ý đến sự hoành hành của bệnh bạch hầu ở Syria và Ai Cập cổ đại. Các nhà khoa học đã tìm ra vi khuẩn gây bệnh vào khoảng năm 1883 - 1884 và kháng độc tố được phát minh vào cuối thế kỷ XIX.

Dấu hiệu nhận biết bệnh bạch hầu

Triệu chứng của bệnh bạch hầu thường sẽ xuất hiện trong vòng 2-5 ngày sau khi bị nhiễm vi khuẩn. Một số người sẽ không biểu hiện bất cứ triệu chứng nào trong khi một số người khác sẽ xuất hiện các triệu chứng nhẹ và thường bị nhầm là cảm lạnh thông thường.

Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh mà bệnh bạch hầu sẽ có các biểu hiện khác nhau, ví dụ như:
 

 

- Ở mũi: Thường khởi phát giống cảm lạnh. Đặc trưng là chảy mũi nhầy mủ, có thể lẫn máu. Màng giả mạc màu trắng xám thường được tạo thành ở vách ngăn. Bệnh thường nhẹ, do sự hấp thu độc tố vào máu tại chỗ kém và bệnh có thể điều trị được bằng kháng độc tố và kháng sinh.

- Ở họng và amidan: Đây là vị trí thường gặp nhất của bệnh bạch hầu. Trong giai đoạn đầu, người bệnh thường sẽ mệt mỏi, đau họng, chán ăn, sốt nhẹ. Trong vòng 2 - 3 ngày sẽ hình thành một mảng màu trắng xanh, kích thước có thể thay đổi nhỏ như một mảnh vá trên bề mặt amidan hoặc có thể lớn che phủ gần hết vùng họng.

Một số bệnh nhân có thể tự đẩy lùi bệnh mà không cần điều trị nhưng một số khác có thể tiến triển nặng hơn. Bệnh nhân nặng có thể sưng to vùng dưới hàm, hạch cổ. Nếu độc tố đi vào máu nhiều, người bệnh sẽ phờ phạc, tím tái, mạch đập nhanh, lờ đờ, hôn mê, thậm chí có thể tử vong trong vòng 6 đến 10 ngày.

- Ở thanh quản: Triệu chứng gồm sốt, khàn giọng, ho. Màng giả mạc nhanh chóng gây tắc nghẽn đường thở, hôn mê và tử vong.

- Ở trên da: Hay gặp ở người vô gia cư, triệu chứng thường là nổi mẩn ngứa, loét da. Dòng vi khuẩn gây ra bệnh ở da hiếm khi tiết độc tố nên bệnh sẽ nhẹ hơn ở những vùng khác.

Bệnh bạch hầu nguy hiểm mức nào?

Các độc tố bạch hầu khi ngấm vào máu sẽ gây tình trạng nhiễm độc toàn thân. Độc tố bạch hầu có thể gây viêm cơ tim làm bệnh nhân bị suy tim cấp, hoặc loạn nhịp tim gây tử vong. Ngoài ra có thể gặp tình trạng viêm các dây thần kinh gây liệt. Nếu giả mạc hình thành tại thanh quản có thể gây tắc nghẽn đường thở và tử vong.

Tỉ lệ tử vong thông thường của người bị bệnh bạch hầu lên đến 5-10%. Ở những trẻ em dưới 5 tuổi và những người lớn tuổi, có thể tử vong tới trên 20%.

Ngoài ra, người bệnh bạch hầu có thể bị các biến chứng khác như viêm tai giữa, viêm phổi do liệt cơ hoành...

Bệnh bạch hầu lây qua đường nào?

Vi khuẩn bạch hầu corynebacterium diphtheriae lây lan qua ba con đường chính là:

Thông qua giọt nước trong không khí: Khi một người bị nhiễm bệnh hắt hơi hoặc ho sẽ phát ra một giọt nước có chứa mầm bệnh, những người ở gần đó có thể hít phải và lây bệnh. Và bệnh bạch hầu lây lan nhanh chóng theo cách này, đặc biệt ở những nơi đông người.

Thông qua vật dụng cá nhân chứa mầm bệnh: Một số trường hợp mắc bệnh bạch hầu do dùng chung các vật dụng mà người nhiễm bệnh đã sử dụng như cốc uống nước, bát, thìa hoặc tiếp xúc với các mảnh giấy ăn, khăn, quần áo mà người bệnh đã sử dụng...

Đồ gia dụng bị ô nhiễm: Một số trường hợp hiếm hơn khi bị lây nhiễm bệnh bạch hầu thông qua các vật dụng dùng chung trong gia đình như tủ lạnh, máy xay sinh tố...

Ngoài ra, những người đã bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu nhưng chưa được điều trị triệt để có thể lây nhiễm cho những người khỏe mạnh trong vòng 6 tuần, ngay cả khi họ không có bất kỳ triệu chứng nào.

Người tiêm chủng rồi có nguy cơ bị bệnh bạch hầu hay không?

Sau khi được tiêm chủng đầy đủ, cơ thể sẽ sinh ra kháng thể giúp bảo vệ chúng ta khỏi bệnh bạch hầu.

Tuy vậy, có một số ít người sức đề kháng không tốt, sau khi tiêm phòng không tạo kháng thể đủ để bảo vệ cơ thể thì vẫn có nguy cơ bị mắc bệnh bạch hầu.

Một số người tiêm phòng đã quá lâu, nồng độ kháng thể trong máu xuống thấp thì cũng có thể bị mắc bệnh bạch hầu. Chính vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo mọi người nên đi tiêm phòng nhắc lại sau mỗi 10 năm.

Đối tượng nào có nguy cơ mắc bệnh bạch hầu?

Trẻ em thường được tiêm phòng bệnh bạch hầu từ khi mới sinh nên bệnh rất hiếm gặp. Tuy nhiên, ở những địa phương có tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin bạch hầu thấp thì bệnh vẫn có thể lây lan. Ở những địa phương này, trẻ em dưới 5 tuổi và người cao tuổi trên 60 tuổi là những đối tượng nguy cơ cao dễ mắc bệnh bạch hầu.

Những người sau đây cũng sẽ có nguy cơ mắc bệnh bạch hầu cao hơn nếu:

  • - Trẻ em và người lớn không được tiêm vắc-xin bạch hầu đầy đủ.

  • - Những người sống trong điều kiện đông đúc hoặc mất vệ sinh.

  • - Đi du lịch đến một khu vực đang có dịch bạch hầu.

Phòng ngừa bệnh bạch hầu thế nào?

Bệnh bạch hầu xuất hiện ở mọi nơi trên thế giới và đã gây nên các vụ dịch nghiêm trọng, nhất là ở trẻ em trong thời kỳ chưa có vắc-xin dự phòng. Năm 1923, vắc-xin giải độc tố bạch hầu ra đời và từ đó đến nay tính nghiêm trọng của bệnh dịch đã thay đổi trên toàn thế giới.

Hiện nay, tiêm vắc-xin là giải pháp phòng bệnh bạch hầu hiệu quả và an toàn nhất. Tại Việt Nam hiện nay không có vắc-xin đơn phòng bệnh bạch hầu mà chỉ có vắc-xin phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu như:
 

 

Ở chương trình Tiêm chủng quốc gia (tiêm chủng mở rộng, không mất phí):

  • - Vắc-xin 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - Hib - viêm gan B (DPT-VGB-Hib) thường tiêm khi trẻ được 2, 3, 4 tháng tuổi.

  • - Hoặc vắc-xin 3 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván thường tiêm khi trẻ được 16 - 18 tháng tuổi.

  • - Hoặc vắc-xin phòng bệnh bạch hầu - uốn ván cho nhóm đối tượng người lớn có nguy cơ cao và chỉ được sử dụng trong chiến dịch khi có dịch bệnh chứ không tiêm phổ cập.

Hoặc tiêm chủng dịch vụ (có mất phí tại các cơ sở Y tế hoặc trung tâm tiêm chủng):

  • - Vắc-xin 6 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - bại liệt - Hib - viêm gan B hoặc vắc-xin 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - Hib - bại liệt thường tiêm khi trẻ được 2, 3, 4 tháng tuổi và khi trẻ được 16 - 18 tháng tuổi.

  • - Hoặc vắc-xin 4 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - bại liệt thường tiêm khi trẻ được 4 - 6 tuổi.

  • - Hoặc vắc xin 3 trong 1 phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván thường tiêm đối với trẻ trên 4 tuổi và người lớn (được khuyến cáo tiêm nhắc lại mũi vắc-xin này cứ 10 năm một lần).

Thời gian qua, nhiều gia đình còn lo ngại về vaccine nên không cho trẻ đi tiêm đầy đủ, dẫn đến trong cộng đồng còn nhiều trẻ chưa có miễn dịch, có thể dẫn đến nguy cơ bùng phát dịch bệnh bạch hầu ở một số địa phương.

Bên cạnh thực hiện đầy đủ các mũi tiêm chủng nêu trên, bạn cũng nên thực hiện các biện pháp sau đây để ngăn ngừa căn bệnh bạch hầu này một cách hiệu quả nhất.

  • - Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng hoặc nước rửa tay, che miệng khi ho hoặc hắt hơi, giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hằng ngày.

  • - Hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.

  • - Đeo khẩu trang khi tới chỗ đông người.

  • - Khi có các dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải báo ngay với cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám, điều trị kịp thời.

  • - Người dân trong ổ dịch cần thực hiện nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vắc-xin, đồng thời thực hiện lệnh cách ly theo yêu cầu của cơ quan y tế.

Theo Thành viên diễn đàn lamchame.com tổng hợp

MỚI NHẤT

ĐỌC NHIỀU