Tiểu Lý (3 tuổi) mắc bệnh viêm ruột, tiêu chảy kéo dài khoảng 2 tháng, đại tiện ra máu từ 8 đến 10 lần trong 1 ngày.
Nguyên nhân được chẩn đoán Tiểu Lý nhiễm trùng ruột do C-Difficile. Đây là hậu quả trong việc sử dụng kháng sinh liều lượng cao hoặc sử dụng kháng sinh trong khoảng thời gian dài khiến niêm mạc ruột bị viêm. Hơn nữa, vi khuẩn clostridium difficile còn tiết ra độc tố khiến bệnh trở nên nghiêm trọng. Theo ghi nhận, ở Đài Loan khoảng 100.000 người nhập viện thì sẽ có 45 trường hợp nhiễm trùng ruột do C-Difficile.
Bác sĩ Khưu Chính Tuân, khoa truyền nhiễm, bệnh viện Linkou Chang Gung Memorial Hospital đã áp dụng phương pháp cấy ghép vi sinh vật trong phân (Fecal microbiota transplantation - FMT) để điều trị cho bệnh nhi.
Người được chọn hiến đầu tiên là anh trai của Tiểu Lý, nhưng kết quả xét nghiệm vi sinh vật trong phân không phù hợp. Thật may, chị gái của Tiểu Lý phù hợp với tiêu chuẩn cấy ghép. Sau 2 ngày được bác sĩ Khưu Chính Tuân tiến hành cấy ghép vi sinh vật trong phân, Tiểu Lý đã khỏe mạnh, xuất viện về nhà và đến nay bệnh không còn tái phát.
Bác sĩ Khưu Chính Tuân cho biết: "Điều trị nhiễm trùng ruột do C-Difficile rất khó khăn. Do người dân có thói quen lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh, nên một khi điều trị bằng kháng sinh thất bại sẽ gây ra tình trạng kháng thuốc. Khi đó cho dù bệnh bước đầu có cải thiện nhưng sẽ liên tục tái phát. Phương pháp cấy ghép vi sinh vật trong phân được đánh giá là phương pháp tự nhiên, hiệu quả. Bộ Y tế và Phúc lợi của Đài Loan đã thông qua và khuyến khích áp dụng phương pháp kĩ thuật cấy ghép vi sinh vật trong phân nên điều trị cho người bệnh rất khả quan.
Từ năm ngoái cho đến tháng 6 năm nay, bệnh viện đã cấy ghép vi sinh vật trong phân cho 5 trường hợp, nhóm đối tượng từ 3 - 88 tuổi. Sau khi áp dụng phương pháp này, tỉ lệ thành công là 90%, từ 2 - 4 tuần vi khuẩn trong đường ruột của người bệnh đã trở về mức cân bằng nguyên trạng, tiến hành theo dõi từ 2 tháng - 1 năm ghi nhận không có trường hợp tái phát".
Ghép phân hoặc cấy ghép vi sinh vật trong phân (Fecal microbiota transplantation - FMT) trong nhiều năm qua là đề tài tranh cãi của đông đảo nhà nghiên cứu, các bác sĩ, các phương tiện truyền thông và cộng đồng.
Kỹ thuật này được tiến hành ở những người bị nhiễm khuẩn Clostridium Difficile kháng kháng sinh. Đây là dạng nhiễm trùng đường ruột khó chữa vì các vi khuẩn xấu sinh sôi với tốc độ nhanh trong đại tràng và có thể dẫn đến tiêu chảy gây tử vong.
Việc cấy ghép bao gồm lấy phân từ một người hiến tặng khỏe mạnh và đặt nó vào đại tràng của bệnh nhân bị bệnh. Các nhà khoa học cho hay, có nhiều người mắc các bệnh đường ruột khiến một lượng lớn vi khuẩn có lợi bị chết hoặc quá ít. Trong khi đó, các vi khuẩn này lại có rất nhiều trong phân của người hiến khỏe mạnh. Tuy nhiên, tiêu chí đòi hỏi ở người hiến phân khá ngặt nghèo. Người hiến không những phải được xét nghiệm máu mà còn phải trải qua 3 bài kiểm tra chất lượng phân khác.
Ngoài ra, người hiến cũng phải tuân theo chế độ ăn uống nghiêm ngặt. Chế độ ăn uống của họ không những phải lành mạnh mà còn không được ăn ngô, tôm, cua, ốc, thịt giăm bông, xúc xích và kháng sinh. Người hiến cũng phải đến cơ sở y tế ít nhất 1 giờ trước khi hiến. Nguyên nhân là vì phân phải được cấy ghép vào ruột người nhận chỉ trong vòng vài giờ sau khi thải ra khỏi cơ thể người hiến.
Cảnh báo từ FDA
Mặc dù những lợi ích mà phương pháp này mang lại khá lớn nhưng mọi liệu pháp đều đi kèm với rủi ro. Việc cấy ghép phân có thể gây khó chịu và dễ phát tán mầm bệnh. Thêm vào đó, phân khác với mọi loại thuốc. Chúng được tạo nên từ hàng loạt vi khuẩn, virus chưa xác định cùng các thành phần biến đổi.
Mới đây, theo FDA, 2 bệnh nhân được cấy ghép vi khuẩn phân trong một thử nghiệm lâm sàng đã phát triển các bệnh nhiễm trùng đe dọa tính mạng từ các vi khuẩn đa kháng thuốc được cấy ghép. Cả hai bệnh nhân đều bị suy yếu hệ thống miễn dịch khiến họ dễ bị vi trùng kháng nhiều loại kháng sinh hơn. Hậu quả là 1 bệnh nhân đã tử vong.
Vì vậy, trước khi tiến hành cấy ghép phân cho bệnh nhân, FDA yêu cầu cần phải tiến hành sàng lọc và xét nghiệm phân nghiêm ngặt để đảm bảo rằng không có vi khuẩn nào có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Ngoài ra, khi cấy ghép, các bác sĩ cần phải có đầy đủ thông tin từ bệnh nhân. Đồng thời, bệnh nhân cần được cảnh báo về bất kỳ rủi ro tiềm ẩn nào liên quan đến việc điều trị và được cho biết rằng việc điều trị vẫn được coi là thử nghiệm.
Theo Ettoday
Theo Trí thức trẻ