Vụ việc vở bài tập Toán lớp 1 dạy trẻ bài bạc qua việc đếm "cơ, rô, chuồn, bích", Tiến sĩ giáo dục Nguyễn Thị Thu Huyền lên tiếng

Tư duy của trẻ khác với người lớn. Có những người lớn vừa nhìn vào là liên tưởng đến bài bạc. Tuy nhiên, trẻ em nhìn các hình này thì chỉ đơn giản là hình.

 

Giáo viên khi dạy nội dung này sẽ yêu cầu trẻ nhìn vào hình vào đếm xem có bao nhiêu "hình nhỏ" trong ô, và có thể giới thiệu tên những hình quen thuộc cho trẻ như "hình trái tim", "hình thoi", "hình cái cây có tán".

"Hình thoi" có thể là một tên khó nhớ hơn nên giáo viên có thể bỏ qua, gọi ngắn gọn là "hình" cũng không ảnh hưởng đến mục tiêu cần đạt ở bài tập này.

Nó không có gì liên quan đến bài bạc, hay tên gọi "cơ, rô, chuồn" mà người lớn đem từ thói quen của mình vào cả.

Nói rộng hơn về lập luận chỉ trích dành cho bộ sách: xu hướng trẻ mê bài bạc, ảnh hưởng việc học không phụ thuộc vào việc trẻ biết những hình ảnh này mà là do sự quản lý, dạy dỗ con của các gia đình. Thực chất, nhiều loại bài là các trò chơi trí tuệ (board games) được khuyến khích để phát triển tư duy của trẻ. Các trò chơi bài Tây với 52 lá thông thường nếu hướng dẫn tốt theo từng độ tuổi thì cũng là hoạt động có thể rèn tính nhẩm cho trẻ nếu chơi kiểu 3 lá, cộng điểm (nút); rèn kỹ năng ra quyết định trong các thể loại luật chơi khác có tính đối kháng và phức tạp hơn.

Mới đây, lại có những chỉ trích khác về cách dùng thuật ngữ "âm’ và "chữ" trong sách tiếng Việt lớp Một. Có những phụ huynh băn khoăn khi lệnh trong sách là "nói to tiếng có âm a, nói thầm tiếng không có âm a' trong một bài tập có hình con gà, chiếc lá, con cá, cái nhà, con thỏ, quả cà (nhiệm vụ 1).

Tương tự, một nhiệm vụ khác (nhiệm vụ 2) là "tìm tiếng có âm c" với các hình ảnh đính kèm là lá cờ, con cá, con vịt, con cú, con cò, con dê.

Sang nhiệm vụ tiếp theo (nhiệm vụ 3) lại là "tìm chữ a, chữ c" và gắn kèm các hình chữ "a" "e", "c","s","i",…

Có vẻ việc gọi tên "âm" và "vần" mới nghe thì thấy không tách bạch. Nhưng thực chất nhiệm vụ 1, 2 gắn với yêu cầu nói nên ở mệnh lệnh này, bộ sách dùng thuật ngữ "âm" liên quan đến tiếng phát ra từ miệng. Nhiệm vụ 3 gắn với yêu cầu viết ở mức độ thấp là nhận diện mặt chữ nên dùng thuật ngữ "chữ" là "cái được viết xuống". 

Giáo viên khi dạy trên lớp sẽ giải thích ngắn gọn là học sinh hiểu ngay. Học sinh lớp Một không phải chuyên gia ngôn ngữ nên cũng không thắc mắc quá nhiều về các thuật ngữ. Ở lớp Một cũng không bắt các em phải định nghĩa "âm", "chữ" theo chuẩn khoa học. Vì vậy, các em hiểu không hiểu theo cách mà cha mẹ, người lớn lo lắng, và thực tế là trẻ học các bài này đều hiểu đúng nội dung sách giáo khoa truyền tải.

Tuy nhiên, các ý kiến chỉ trích (đã được rút xuống) đã gây một sự lo lắng thiếu chính xác và thái quá về những nội dung được dạy.

Những ý kiến của cộng đồng trong thời gian qua nếu nhìn nhận một cách tích cực thì cho thấy mức độ quan tâm và phản biện xã hội về giáo dục của người dân đã tăng lên rất nhiều so với giai đoạn trước. Đây cũng là cơ hội để các chuyên gia giáo dục giải thích để mọi người hiểu sâu sắc hơn ý đồ của người viết sách và cách tư duy của học sinh nhỏ tuổi. Không có bộ sách nào là hoàn hảo, có thể có những sai sót nhỏ cần chỉnh lý ở các lần tái bản nhưng hành trình cho ra đời một bộ sách, nhất là sách giáo khoa thì rất kỹ lưỡng, tập hợp nhiều chuyên gia, phản biện nhiều lần qua nhiều vòng thẩm định và được chứng tỏ trên thực tiễn giảng dạy.

Do đó, trước khi chỉ trích, lên án, phụ huynh và cộng đồng nên bình tĩnh xem xét và đặt vấn đề để các chuyên gia đầu ngành, các tác giả giải đáp, thay vì đưa ra các nhận xét thiếu cơ sở khoa học, dẫn dắt dư luận đến các nhận định tiêu cực nghiêm trọng hơn.

 
 

 

Theo afamily.vn

MỚI NHẤT

ĐỌC NHIỀU